MỤC LỤC

Căn” có nghĩa là gốc rễ, là căn bản. Ngũ Căn” là 5 điều căn bản, hay là 5 gốc rễ. “Ngũ Căn” có 3 loại: 

  1. Ngũ Căn phát sinh các Thiện Pháp. Ngũ Căn này thường được nhắc đến cùng với Ngũ Lực. Nên thường được gọi là Ngũ Căn – Ngũ Lực”
  2. Ngũ Căn của thân người: là năm cơ quan của thân người phát sinh mọi sự việc. 
  3. Ngũ Căn Nghiệp: là năm gốc rễ phát sinh ra nghiệp luân hồi sinh tử.

NGŨ CĂN – NGŨ LỰC 

Ngũ Căn – Ngũ Lực là hai hành pháp thứ tư và thứ năm thuộc bảy hành phẩm trong 37 Phẩm Trợ Đạo (thuộc Đạo Đế trong Tứ Diệu Đế). Ngũ Căn và Ngũ Lực ở đây thuộc nền tảng căn bản thúc đẩy để từ đó phát sinh ra kết quả tùy thuộc vào tác nhân tạo ra chúng hoặc thiện hoặc ác, hoặc tốt hoặc xấu … Ngũ Căn là nền tảng có khả năng sản sinh và tăng trưởng các thiện nghiệp, thì Ngũ Lực chính là sức mạnh để chặn đứng, triệt tiêu các thế lực Vô Minh phiền não bất thiện.

NGŨ CĂN

Ngũ Căn (Pañcānām indriyāṇām) ở đây có nghĩa là Năm Vô Lậu Căn (5 Căn Vượt Mọi Phiền Não). Là năm nền tảng gốc rễ, đưa đến việc sản sinh và tăng trưởng thiện nghiệp. Là con đường đưa về Thánh Đạo. Ngũ Căn ấy là: 

  1. Tín căn (Śraddhendriya): Tin pháp Tứ Diệu Đế37 Phẩm Trợ Đạo là những chân lý vô thượng.
  2. Tấn căn (Vīryendriya): Tinh tiến cầu Đạo. Quyết không bao giờ thối chuyển Đạo Tâm.
  3. Niệm căn (Smṛtīndriya): Tâm thường suy nghĩ đến Đạo lý trên, không khởi ra những tư tưởng tạp nhiễm.
  4. Định căn (Samādhīndriya): Tâm thường chánh niệm, không cho vọng tưởng dấy khởi tán loạn.
  5. Huệ căn (Prajñendriya): Quán sát chân lý nghĩa Tứ Diệu Đế là con đường đi đến bờ Giác Ngộ.

TÍN CĂN

Tín căn (Śraddhendriya): là lòng tin được đặt trên chiều hướng câu hữu (cùng tồn tại) với Thiện Pháp và đưa đến Giải Thoát. Tức là Tin một các vững chắc vào Tam Bảo. Tin Như Thật vào chân lý Tứ Diệu Đế. Lòng tin này được đặt trên nền tảng Như Thật. Như Thật tức là: không tin một cách mù mờ, vô căn cứ. Không thấy, không biết, không nghe mà vẫn cứ tin, đó gọi là tin mù quán, mê tín dị đoan không có cơ sở, bất chấp sự thật của hầu hết các bộ phái ngoại đạo. Lòng tin Như Thật ở đây là con đẻ của lý trí. Là kết quả của sự suy luận so sánh đối chiếu sáng suốt. Của sự quan sát tư duy kỹ càng chứ không phải của tình cảm đam mê lú lẫn.

Đức Phật không bao giờ bắt buộc chúng ta tin một điều gì mà không tìm hiểu suy xét về điều đó. Không giải thích tường tận rõ ràng về nó. Vì vậy cho nên Ngài thường dạy cho các đệ tử của Ngài là:

“Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là phỉ báng Ta!” 

Lòng tin của chúng ta phát khởi từ trí tuệ, có xét đoán tìm hiểu một cách rõ ràng minh bạch. Thì lòng tin đó nó mới vững chắc, mãnh liệt. Chính nó là nền tảng căn bản phát sinh các hạnh lành. Nhưng hành giả chúng ta phải tin cái gì cho đúng với thiện pháp, đúng với giải thoát? Đó chính là tin vào Tam Bảo:

  1. Tin Phật: Chúng ta biết rằng Đức Phật là bậc hoàn toàn giác ngộ. Và đã hoàn toàn giải thoát tất cả mọi vướng bận của khổ đau thế gian. Vì vậy, hành giả chúng ta lúc nào cũng luôn luôn tin tưởng về Đức Phật. Hướng mục tiêu của chúng ta vào sự hoàn thành giác ngộ. Cũng như giải thoát cuối cùng của chúng ta phải được như chính Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã thân chứng. Bởi vì Đức Phật đã từng dạy: “Ta là Phật đã thành. Con là Phật sẽ thành
  2. Tin pháp: Hành giả chúng ta tin vào Pháp là chân lý sống, là pháp như thậtĐức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã thân chứng và truyền lại cho những người đi sau như chúng ta. Hay nói một cách khác. Pháp đó chính là giáo lý chỉ cho bốn sự thật mà Đức Bổn Sư đã thuyết giảng lần đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như tại Vườn Nai. Chúng ta tin tưởng một cách tuyệt đối vào những giáo lý ấy, vì người nói ra là Đức Phật. Ngài đã tự thân tác chứng và giác ngộ được cũng nhờ vào giáo lý ấy.
  3. Tin Tăng: Hành giả chúng ta tin tưởng vào Tăng là những người thực hành các giáo lý của Đức Bổn Sư. Để tự thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý. Để giác ngộ mình, giác ngộ người khác. Là những vị đại diện cho Đức Phật đưa cao ngọn đuốc Chánh Pháp sáng soi cho mọi người đi theo. Nên hành giả quyết trọn đời phải tin tưởng và, quy hướng về Tăng để thực hành giải thoát.
ngũ căn ngũ lực - tín căn
Tin Như Thật vào Tam Bảo

TẤN CĂN

Tấn căn (Vīryendriya): Là sự nỗ lực siêng năng, sự tinh tấn dũng mãnh trong việc thực hành tu tập các pháp lành mà hành giả đã lựa chọn. Không bao giờ để cho thối lui. Nếu hành giả đã có lòng tin chắc chắn vào pháp tu mà không nỗ lực siêng năng tinh tấn thực hiện thì lòng tin suông trên lý thuyết đó sẽ trở thành vô dụng. Không đưa hành giả chúng ta đạt đến cứu cánh giải thoát được.

Nên hành giả nào đã tin tưởng vào Tam Bảo. Thì phải luôn luôn nỗ lực siêng năng, tinh tấn thực hành giáo lý của Đức Phật. Sự Tinh Tấn có 3 loại:

  1. Bị giáp tinh tấn: Mặc áo giáp tinh tấn. Là một trong những thứ vũ khí lợi hại khi chiến đấu với các loại giặc, các loại ma trong đó có nội ma ngoại ma. Trong cuộc chiến đấu này hành giả bắt buộc phải cần đến áo giáp tinh tấn, nó là một trong những lợi khí khi xông pha vào trận địa “phiền não”, nó luôn luôn động viên và thúc giục hành giả tiến lên phía trước một cách cam đảm dũng mãnh mà không còn sợ sệt ma quân hãm hại. Nhờ có áo giáp này, nó là một năng lực khiến chúng ta hùng dũng tiến tới, không sợ gian nan nguy hiểm, không lùi bước trước một trở ngại hay một địch thủ nào, nên siêng năng tinh tấn là một trợ lực rất có hiệu quả cho hành giả trên bước đường tu tập thực hành để đạt giải thoát.
  2. Gia hành tinh tấn: Hành giả luôn luôn nỗ lực gắng sức không bao giờ lười nhác dừng nghĩ trên bước đường tu tập đi đến giải thoát. Với thứ tinh tấn này. Nỗ lực của sức mạnh tiếp sức này tức là chỉ cho những duyên phụ thuộc kích thích hành giả chúng ta càng tiến lên càng tạo thêm sức mạnh càng hăng, càng kích thích phấn chí nhiều hơn. Và chúng sẽ làm cho hành giả không còn mệt mỏi biếng nhác nữa.
  3. Vô hỷ túc tinh tấn: Là không vui sướng tự mãn với thành quả vừa đạt được trong lúc tu tập thực hành mà cho là vừa đủ không cần cố gắng tiến lên nữa. Hành giả khi nào chưa vào được Thánh đạo thì dứt khoát phải còn gia công gắng sức tu tập mãi mãi. Chứ không chịu dừng lại, mà hưởng vui với một quả vị thấp kém, tạm thời. Như người đi bộ khi chưa đến đích cuối cùng thì, vẫn còn hăng hái tiến bước mãi càng nhanh càng tốt. Chứ không chịu chấm dứt cuộc hành trình của mình với dạng lấy lệ, hay cho như vậy là đủ bằng cách an phận nghỉ ngơi mãi trong quán trọ bên đường. Làm cho tiến độ càng ngày càng suy giảm tốc độ dần cho đến khi quên mất mục đích nơi đến cuối cùng của mình.
ngũ căn ngũ lực - tấn căn
Tinh Tấn Tu Tập Thiện Pháp

NIỆM CĂN

Niệm căn (Smṛtīndriya): Mục tiêu của niệm là nhớ nghĩ đến những Pháp câu hữu với Giải Thoát (những pháp cùng tồn tại với sự giải thoát). Giúp hành giả nếu muốn đạt được giải thoát. Thì cần phải nhờ vào những pháp, phương tiện trợ duyên tu tập của mình. Nhớ nghĩ đến những pháp câu hữu với giải thoát có 3 loại Niệm:

  1. Niệm thí: Là nhớ nghĩ đến việc Tu Tập Bố Thí. Hành giả ở đây ngoài việc tự làm lợi cho chính mình. Thì lúc nào cũng phải nhớ nghĩ đến việc đem tài sản bố thí cho người nghèo khổ. Đem Hùng Lực Vô Úy của chính mình cứu giúp cho những người sợ hãi nhút nhát. Đem Chánh Pháp chỉ giáo bày vẽ cho người si mê, khiến họ hết khổ được vui như mình.
  2. Niệm giới: Là nhớ nghĩ đến việc Trì Tịnh Giới để đoạn trừ các phiền não nghiệp chướng mà hành giả đã lỡ tạo ra trong vô lượng kiếp quá khứ. Và để ngăn ngừa những nghiệp nhân ác bất thiện có thể xảy ra trong hiện tại. Cũng như làm tăng trưởng mọi pháp lành trong quá khứ qua những tác nhân trong hiện tại. Hành giả ở đây cũng vậy ngoài việc tự lợi cho chính mình trong việc Giữ Gìn Giới cho thanh tịnh. Mà còn ảnh hưởng tương hỗ đến mọi người xung quanh qua việc sống với mọi người trong một cộng đồng. Sự ảnh hưởng tương hỗ này cộng hưởng qua 3 Loại Giới:
    • Nhiếp Luật Nghi Giới: Những giới điều để ngăn cấm các tác nghiệp thô xấu qua các oai nghi có thể xảy ra trong hiện tại, đồng thời cùng lúc đoạn trừ các nghiệp chướng nơi thân tâm có thể xảy ra trong tương lai.
    • Nhiếp Thiện Pháp Giới: Những giới điều được đặt ra đúng pháp và lợi ích chúng câu hữu với giải thoát. Hành giả tu tập thực hành giữ gìn theo nó thì, có thể thành tựu tất cả mọi pháp lành trong tương lai.
    • Nhiêu Ích Hữu Tình Giới: Những giới điều đưa đến làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh khi hành giả thực hành tu tập giữ gìn chúng. Vì sự tương quan tương duyên sinh khởi nên một khi hành giả thành tựu pháp tu thì tất cả đều cùng lúc thành tựu trong sự hiện hữu đồng thời của chúng.
  3. Niệm Thiên: Lúc nào hành giả cũng nhớ nghĩ đến sự an lạc của chư thiên và bố thí trì giới để tạo ra các thiện nghiệp cho tương lai thì chắc chắn sẽ hưởng được mọi thứ công đức này khi thọ thân trời phóng ra ánh sáng, không đâu là không chiếu tới. Như Kinh Tăng Nhất A-hàm 2 phẩm Quảng diễn Đức Đạo Sư dạy: “Nếu có Tỳ-kheo nào, chánh thân chánh ý, ngồi kiết già, cột niệm phía trước, không tưởng nghĩ đến việc khác, chỉ nhớ nghĩ đến trời, thân khẩu ý thanh tịnh không tạo ra các việc xấu. Giữ gìn giới, thành tựu thân giới thì, thân phóng ra ánh sáng, không đâu không đến … lúc nào cũng nhớ nghĩ đến trời không bao giờ quên thì, sẽ thu được mọi thứ công đức thiện này.” Hay Nhiếp Đại Thừa luận thì nói: “Niệm Thiên là an trụ vào bốn món thiền định”. Vậy niệm thiên là nhớ nghĩ đến cách tu tập bốn thiền định, để thanh lọc sạch hết tất cả phiền não mà giải thoát.

ngũ căn ngũ lực - niệm căn
Hành giả muốn được Giải Thoát thì phải nhớ nghĩ đến những Pháp câu hữu với Giải Thoát

ĐỊNH CĂN

Định căn (Samādhīndriya): Định nói cho đủ là “Chánh Định”. Dịch nghĩa từ chữ Samādhi phiên âm là Tam-ma-địa. Định là khiến tâm hành giả trụ vào một nơi, một chỗ để lắng tâm yên tịnh. Chánh là chánh pháp. Vậy Chánh Định có nghĩa là chuyên chú vào chánh pháp, không cho tâm hành giả tán loạn mà quán sát vọng tưởng những điều khác. Còn Căn phạn ngữ gọi là indriya vừa có nghĩa là tăng trưởng vừa có nghĩa sinh khởi. Do đó “Định Căn” có nhiệm vụ khiến cho tâm hành giả dừng lại một chỗ, không vì hoàn cảnh ngoại tại mà sức thiền định bị dao động. Sức thiền định này có khả năng sinh khởi ra mọi thứ công đức và làm chúng tăng trưởng lên. Cho nên gọi là Định CănĐịnh có thể chia làm 3 bậc:

  1. An trụ định: Để tâm an trụ vào định, nên vọng tưởng không có cơ hội để khởi lên, nhờ vậy mà hành giả đi sâu vào trong thiền định và, từ đó phiền não được diệt trừ.
  2. Dẫn phát định: Nhờ phiền não đã được đoạn trừ nên trí tuệ được hiện hữu phát sinh các thứ công đức thù thắng.
  3. Biện sự định: Nhờ đã phát sinh các thứ công đức viên thành, nên thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh; cứu độ chúng sinh giải thoát sinh tử, chứng đắc Niết Bàn.
ngũ căn ngũ lực - định căn
Sức Thiền Định có khả năng đoạn trừ các phiền não và sinh khởi cũng như làm tăng trưởng công đức

HUỆ CĂN

Huệ căn (Prajñendriya): Quán Trí phát sinh được nhờ Định. Và cũng từ đó mà hành giả hiểu rõ được chân lý như thật của muôn pháp. Quán đạt chân lý gọi là Huệ. Khi Trí Huệ đầy đủ thì tất cả mọi thứ phiền não tự tiêu trừ. Và các năng lực Thiện Pháp xuất hiện, thành tựu trọn vẹn mọi thứ công đức cho đến lúc thành Đạo. Cho nên gọi là Huệ Căn. Theo Nhiếp Đại Thừa, Trí Huệ có 3 bậc:

  1. Vô phân biệt gia hành huệ: Trí huệ này không còn có sự phân biệt nữa, nhưng còn cần phải thực hành thêm. Nghĩa là còn cần sự dụng công tu hành, để thành tựu hoàn toàn trí vô phân biệt. Vì thế, nên gọi là “vô phân biệt gia hành huệ”.
  2. Vô phân biệt huệ: Trí huệ này không còn có sự phân biệt. Và cũng không cần phải thực hành thêm nữa vì nó đã đầy đủ và thuần phục. Nhờ trí huệ này, mà hành giả thể chứng Chân Như một cách tự tại.
  3. Vô phân biệt hậu đắc huệ: Còn gọi là Hậu Đắc Trí. Là Trí Huệ có được sau khi đã chứng được Chân Như. Trí Huệ này không còn phân biệt nữa hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa của các pháp. Chư Phật nhờ Hậu Đắc Trí này mà thi tác vô lượng công đức, để cứu độ chúng sinh. Nói một cách tổng quát giản dị, Huệ Căn là trí huệ nhờ thiền định làm lặng sạch có được. Nó thông đạt được sự thật của các pháp; nó là nền tảng phát sinh ra mọi việc vĩ đại để giải thoát chúng sinh ra khỏi khổ đau.
ngũ căn ngũ lực - huệ căn
Quán đạt chân lý gọi là Huệ. Khi Trí Huệ đầy đủ thì tất cả mọi thứ phiền não tự tiêu trừ.

Tóm lại vì Ngũ Căn này là nền tảng có khả năng sinh sản ra tất cả các pháp thiện, nên gọi là Ngũ Căn. Hơn nữa ‘căn’ ở đây nó cũng mang ý nghĩa tăng trưởng. Như trên chúng ta đã biết, Ngũ Căn này cũng có thể khiến cho con người sản sinh ra Thánh đạo vô lậu nên cũng gọi là Căn.

NGŨ LỰC

Ngũ Lực (Pañcānāṃ balānām): là năm loại lực có được nhờ vào Ngũ Căn tăng trưởng mà sinh ra trong lúc hành giả tu tập. Ngũ Lực chính là sức mạnh duy trì sự liên tục đưa đến giải thoát cho hành giả. Đó chính là thần lực của Ngũ Căn. Chúng có khả năng đối trị thế lực của Ngũ Chướng. Nói một cách dễ hiểu: Ngũ Căn như năm cánh tay của chúng ta. Còn Ngũ Lực như là sức mạnh của năm cánh tay ấy. Ngũ Lực gồm:

  1. Tín lực (Śraddhā-bala): Tức là sức mạnh do Tín Căn sinh ra, với công năng là phá hủy tất cả mọi thứ tà tín.
  2. Tấn lực (Vīrya-bala): Tức sức mạnh do Tinh Tấn Căn sinh ra, có công năng phá hủy mọi sự lười biếng nhác của thân. Khiến hành giả lúc nào cũng siêng năng tinh cần trong việc đoạn ác tác thiện trong việc thực hành tu tập Tứ Chánh Cần.
  3. Niệm lực (Smriti-bala): Tức là sức mạnh do Niệm Căn sinh ra, hay sức mạnh lớn lao bền chắc của niệm căn. Với khả năng phá hủy mọi thứ tà niệm. Và dùng pháp Tứ Niệm Xứ để giữ gìn Chánh Niệm.
  4. Định lực (Samādhi-bala): Tức sức mạnh do Định Căn sinh ra, với khả năng chống phá các thứ loạn tưởng. Bằng vào chuyên tâm Thiền Định để đọan trừ các dục phiền não.
  5. Huệ lực (Prajñā-bala): Tức sức mạnh do Huệ Căn sinh ra, với khả năng chống lại sự phá hoại của ba cõi. Bằng cách Quán Ngộ Tứ Diệu Đế, thành tựu trí huệ, mà đạt được giải thoát.

Tóm lại, Ngũ Căn là nền tảng có khả năng sản sinh ra và làm tăng trưởng các thiện nghiệp. Thì Ngũ Lực chính là sức mạnh để chặn đứng, triệt tiêu các thế lực vô minh phiền não bất thiện. Và có khả năng tăng trưởng các pháp lành. 

NGŨ CĂN THÂN

Ngũ Căn của Thân Người là năm cơ quan phát sinh mọi việc bao gồm:

  1. Nhãn Căn : Là con mắt, nghiệp dụng của nó chiếu soi các sắc, tức là mọi vật hữu hình.
  2. Nhĩ Căn:  Là lỗ tai nghiệp dụng của nó hay nghe tất cả các thứ tiếng.
  3. Tỷ Căn : Tức là cái mũi nghiệp dụng của nó hay ngửi các mùi thơm và hôi.
  4. Thiệt Căn : Tức là cái lưỡi, nghiệp dụng của nó nếm các mùi vị và nói năng kêu gọi
  5. Thân Căn : Có 2 nghĩa:
    • Thân thể: là nơi tích tụ các bộ phận, là chỗ nương cho các Căn.
    • Là sự xúc chạm: ví dụ như đụng vào một cái gì đó ta thấy  trơn hoặc nhám, mềm hoặc cứng, cầm ta thấy nặng hoặc nhẹ…
Ngũ Căn Thân Người

NGŨ CĂN NGHIỆP

Lại có Ngũ Căn như sau:

  1. Thủ Căn : Tức là căn của cánh tay.
  2. Cước Căn : Tức là căn của chân.
  3. Khẩu Thinh Văn : Tức là căn miệng nói.
  4. Nam Căn : Căn của đàn ông tức dương vật.
  5. Nữ Căn : Căn của đàn bà tức là âm vật.

Ngũ Căn ấy cũng gọi là: Ngũ Nghiệp Căn, vì chúng ta dùng Ngũ Căn ấy tạo ra nghiệp luân hồi sanh tử. Nếu phàm phu không sớm điều phục ngũ căn này thì muôn kiếp trầm luân trong Lục Đạo Luân Hồi.

☆☆☆☆☆☆☆💐💐💐💐💐☆☆☆☆☆☆☆

🙏🏻 Nam Mô A Di Đà Phật 🙏🏻

🙏🏻 Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 🙏🏻

🙏🏻 Nam mô Long Hoa Hội Di Lặc Tôn Phật 🙏🏻

🙏🏻 Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát 🙏🏻

🙏🏻 Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát 🙏🏻

🙏🏻 Nam mô Đức Tông Sư Minh Trí 🙏🏻

☆☆☆☆☆☆☆💐💐💐💐💐☆☆☆☆☆☆☆

Khi xem và đọc những điều này. Nếu có chút gì lợi ích cho chúng sinh. Đó là sự diệu dụng của pháp bảo. Xin hồi hướng công đức lành này. Cầu cho chánh pháp được cửu trụ ta bà. Mọi loài sớm thoát khỏi đường mê. Quay về nẻo giác. Từ bỏ sát sanh hại vật. Phát tâm quy y Tam Bảo. Thọ trì ngũ giới. Ăn chay niệm Phật. Bố thí. Phóng sanh. Người người biết lấy lòng từ bi quý kính lẫn nhau. Thế giới hết nghiệp binh đao. Mưa thuận gió hoà. Quốc thái dân an. Muôn loài dứt sạch phiền não. Oan trái nghiệp chướng tiêu trừ. Thân tâm an lạc. Phước huệ song tu. Đạo quả chóng viên thành. Âm siêu dương thới. Lưỡng lộ tồn vong. Pháp giới chúng sanh đồng thành Phật Đạo.

🙏🏻 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 🙏🏻

() Buddham Sharanam Gacchami ()

 

Thiện Hoá sưu tầm và tổng hợp-

Thiện Hóa
Thiện Hóa

Đời đạo hòa đồng tâm an lạc
Sắc không quy nhứt tánh viên minh

Bình Luận

Tháng 04 năm 2024
25
Giờ hoàng đạo: Dần (3-5), Mão (5-7), Tỵ (9-11), Thân (15-17), Tuất (19-21), Hợi (21-23)
Thứ 5
Ngày Kỷ Mùi
Tháng Mậu Thìn
Năm Giáp Thìn
Lịch âm
17
Tháng 03

Về Bích Tọa Đàm

Chúng tôi, những thiện nam tín nữ với 1 lòng thành kính hướng về ngôi Tam bảo, xin được phép thành lập trang Bích Tọa Đàm để làm nơi chia sẻ những lời huyền ngọc, những kiến thức Phật học mà chúng tôi đã hữu duyên kiến huệ được. Nếu có sự trùng lặp hoặc chưa đúng. Rất mong được quý vị, chư đồng đạo hoan hỉ bỏ qua. Cùng nhau góp ý xây dựng để hoằng dương Phật pháp. Cầu cho chánh pháp được cửu trụ ta bà. Muôn loài sớm thoát khỏi đường mê, quay về nẻo giác. Chúng sinh đồng thành Phật đạo.

 – NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT –

Kết nối với chúng tôi

Bài viết gần đây

KẾT NỐI VỚI CHÚNG TÔI

Đăng kí nhận bài viết mới

Đăng kí nhận thông báo về các bài viết mới nhất của Bích Tọa Đàm. 

error: Nội dung được bảo vệ !!

THAM GIA NHÓM FACEBOOK

Hoan hỉ kính mời bạn cùng tham gia vào nhóm của BÍCH TOẠ ĐÀM trên Facebook để cùng nhau tinh tấn tu tập và trao đổi chánh Pháp.
🙏🏻Nam Mô A Di Đà Phật🙏🏻